Ung thư đại tràng đứng thứ 4 thế giới về tỉ lệ tử vong, cùng với đó là tỉ lệ bệnh nhân phát hiện bệnh ở giai đoạn cuối khá cao dẫn tới tiên lượng điều trị không quá tốt. Làm thế nào để nhận ra các dấu hiệu ung thư đại tràng giai đoạn cuối để có hướng điều trị phù hợp và kịp thời? Cùng tìm hiểu trong bài viết dưới đây.
Ung thư đại tràng được chia thành 4 giai đoạn dựa trên mức độ xâm lấn của tế bào ác tính. Trong đó, giai đoạn 4 là giai đoạn cuối cùng của quá trình phát triển bệnh, dấu hiệu ung thư đại tràng giai đoạn cuối đã rõ rệt và người bệnh có thể tự cảm nhận thấy, được chia nhỏ hơn thành 3 giai đoạn IVA, IVB, IVC dựa trên mức độ xâm lấn trong ổ bụng của tế bào ung thư. Mức độ này được nói rõ trong bảng sau:
Giai đoạn | Tình trạng |
IV A | Xuất hiện tế bào ung thư tại một cơ quan xa trực tràng như gan, não, xương, phổi. Có thể xuất hiện di căn hạch xa, nhưng chưa có di căn xa tới trực tràng hoặc phúc mạc. |
IV B | Xuất hiện tế bào ung thư tại nhiều hơn 1 cơ quan xa trực tràng như gan, não, xương, phổi. Có thể xuất hiện di căn hạch xa, nhưng chưa có di căn xa tới trực tràng hoặc phúc mạc. |
IV C | Ung thư di căn phúc mạc |
Giai đoạn IV là giai đoạn cuối của ung thư đại tràng. Bệnh nhân tới giai đoạn này có tiên lượng nặng và các triệu chứng rất rõ ràng.
Các dấu hiệu cảnh báo ung thư ở giai đoạn này rất rõ ràng. Về cơ bản triệu chứng đường tiêu hóa người bệnh khác biệt chủ yếu với thời kì đầu ở mức độ nặng. Tình trạng đau bụng, rối loạn tiêu hóa, nôn, đi ngoài phân máu đều rất rõ. Thêm vào đó là các triệu chứng do khối u di căn tới thận, phổi hay não.
Người bệnh ung thư đại tràng giai đoạn cuối thường có triệu chứng đau bụng dữ dội. Vị trí đau bụng thường ưu thế xung quanh khối u, đôi khi lan khắp bụng. So với giai đoạn I và II triệu chứng thời điểm này ảnh hưởng rất nhiều tới sinh hoạt và làm việc của bệnh nhân.
Lý do dẫn đến tình trạng này là các thụ cảm thể ổ bụng có thể bị xâm nhập và tấn công bởi các tế bào ác tính, khiến tác dụng thuốc giảm đau rất ít ỏi.
Để giảm bớt khó chịu cho bệnh nhân, một số phương pháp như xạ trị, giảm đau liên tục qua tủy sống được sử dụng.
Triệu chứng rối loạn tiêu hóa bao gồm đi ngoài phân lỏng hoặc táo bón. Đây cũng là một trong các triệu chứng thường gặp của hệ tiêu hóa tổn thương do ung thư.
Lúc này, người bệnh thường có những đợt đi ngoài phân lỏng liên tục xen kẽ những đợt táo bón. Triệu chứng này lặp đi lặp lại có tính chu kỳ. Bên cạnh những khó chịu do thay đổi thói quen đại tiện đem lại, người bệnh có thể phát hiện có máu trong phân, lượng máu này tăng dần và thường kèm lẫn nhầy. So với giai đoạn sớm, các biểu hiện chảy máu, táo bón nặng nề và kéo dài hơn rất nhiều.
Nguyên nhân của tình trạng này là các hormon bất thường được tiết ra từ tế bào ung thư, ảnh hưởng tới nhu động của ruột, khiến bệnh nhân có từng đợt tiêu chảy xen táo bón. Trường hợp chảy máu khi đi đại tiện do khối ung thư phát triển lớn, mủn nát, dễ chảy máu ở trung tâm khối u. Khi phân đi qua làm rách các vị trí này nên xuất hiện chảy máu kèm chất tiết của khối u.
Ho, khó thở không phải triệu chứng gốc của ung thư đại tràng mà đây có thể là dấu hiệu của ung thư đại tràng di căn phổi. Tổn thương di căn phổi có thể được đặt ra nếu bệnh nhân ung thư đại tràng xuất hiện các dấu hiệu đường hô hấp, đã loại trừ trường hợp viêm phổi hoặc viêm phế quản.
Lúc này người bệnh sẽ có các cơn ho kéo dài, không đáp ứng với các thuốc giảm ho long đờm thông thường. Các cơn khó thở có thể xuất hiện cùng đợt ho hoặc xuyên suốt trong ngày. Một số trường hợp nặng có thể kèm theo ho máu, ho đờm lẫn máu.
Việc tế bào ung thư di căn tới phổi gây ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động chức năng của phổi. Khối u sinh trưởng trong nhu mô phổi gây chèn ép kích thích vào lòng các phế nang gây tăng phản xạ ho khạc. Triệu chứng khó thở thường do khối u chèn ép vào các phế nang gây hẹp lòng phế nang, giảm khả năng thông khí.
Sốt âm ỉ kéo dài không phát hiện được ổ viêm nhiễm, gầy sút tụt cân bất thường được gọi chung là hội chứng cận u. Tình trạng này là bằng chứng rõ ràng của ung thư giai đoạn muộn.
Trong vòng 6 tháng người bệnh có thể giảm tới 10% trọng lượng cơ thể mà không có lý do cụ thể như bỏ ăn, tập luyện giảm cân hoặc rối loạn tiêu hóa. Sốt âm ỉ là tình trạng cơ thể người bệnh thường xuyên sốt trong khoảng 37.5 tới 38.5 mà không phát hiện được các ổ viêm nhiễm.
Tình trạng này được cho là hậu quả của khối u tăng trưởng không có sự kiểm soát, chiếm hết tài nguyên, năng lượng trong cơ thể người bệnh. Các tế bào ác tính tiết các chất độc, chất gây sốt vào lòng mạch khiến cơ thể tăng thân nhiệt.
Đây là dấu hiệu của ung thư di căn hệ tiết niệu, trong đó có thận, niệu quản, bàng quang. Máu xuất hiện trong nước tiểu là dấu chứng quan trọng thể hiện tổn thương giai đoạn nặng ảnh hưởng tới chức năng của thận.
Khi tế bào ung thư phát triển trong hệ tiết niệu, các tổn thương vùng mạch máu hoặc đài bể thận sẽ tăng nguy cơ có hồng cầu trong nước tiểu. Khi mức độ tổn thương tăng lên, lượng máu lớn dần khiến màu nước tiểu thay đổi dần theo hướng đỏ đậm. Hiện tượng nước tiểu nổi bọt là gợi ý cho tổn thương vi thể cầu thận, một biến chứng nặng của ung thư.
Đau đầu tăng dần, kéo dài và không đáp ứng thuốc giảm đau là triệu chứng rất khó chịu với người bệnh. Nếu người bệnh có thêm các rối loạn về tri giác, nhận thức hoặc thay đổi tâm lý, tổn thương ác tính di căn vùng não cần phải được kiểm tra. Trường hợp nặng khi có khối u lớn ở vỏ não người bệnh có thể xuất hiện các cơn co giật, động kinh.
Các triệu chứng trên là biểu hiện của tổn thương di căn vỏ não của ung thư, trong đó có ung thư đại tràng. Khi khối u có kích thước đủ lớn sẽ làm tăng áp lực nội sọ khiến màng não bị kích thích gây ra những cơn đau đầu. Nếu khối u phát triển ở vùng vỏ não, các xung động thần kinh bất thường do khối u này tạo ra sẽ khiến người bệnh xuất hiện các cơn co giật hoặc ảnh hưởng chức năng vùng não tương ứng như nói khó, thay đổi tính nết, suy giảm nhận thức.
Các dấu hiệu ung thư đại tràng giai đoạn cuối di căn xa tới các tạng như gan, phổi, xương bao gồm:
Ung thư đại tràng được cho là loại ung thư có tiên lượng khá tốt và dấu hiệu của ung thư đại tràng giai đoạn cuối không phải khó để nhận biết như những giai đoạn đầu, tuy nhiên giai đoạn càng muộn khả năng sống người bệnh càng thấp. Các nghiên cứu chỉ ra rằng tỉ lệ sống 5 năm giảm rất nhiều từ giai đoạn III về giai đoạn IV.
Để tiên lượng bệnh thì còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Tuy nhiên theo nghiên cứu thống kê thì ung thư đại tràng có tiên lượng như sau:
Tiên lượng sống của giai đoạn IV là rất nhỏ, tuy nhiên nếu bệnh nhân điều trị kịp thời theo những phác đồ phù hợp, hiện đại tại các bệnh viện uy tín thì vẫn có thể tăng tỷ lệ sống.
Ngoài ra, các yếu tố giúp người bệnh có thời gian sống cao hơn gồm:
Điều trị ung thư đại tràng giai đoạn IV có mục đích chủ yếu nhằm giảm các triệu chứng nặng nề do tổn thương di căn mang lại. Trừ một số trường hợp nhỏ như di căn gan đơn ổ, di căn phổi phân thùy khu trú còn chỉ định phẫu thuật kèm xạ hóa trị, các dạng di căn khác của đại tràng không có chỉ định điều trị phẫu thuật.
Một số phương pháp điều trị dành cho giai đoạn này bao gồm:
Hy vọng những thông tin hữu ích trên đã giúp bạn biết dấu hiệu ung thư đại tràng giai đoạn cuối và các phương pháp trị bệnh. Tuy tiên lượng sống của giai đoạn cuối này thấp, nhưng nếu bệnh nhân được điều trị theo phác đồ phù hợp thì vẫn có thể nâng cao tỷ lệ sống.
Vì thế, bệnh nhân cần chọn được nơi khám chữa chất lượng và tuân thủ theo phác đồ điều trị của bác sĩ. Để được tư vấn hỗ trợ khám và điều trị ung thư đại tràng tại Bệnh viện Ung bướu Hưng Việt, hãy liên hệ theo hotline 094 230 0707 hoặc fanpage: www.facebook.com/HungVietHospital.VN.
Bài viết trên chỉ mang tính chất tham khảo, không thay thế cho việc chẩn đoán hoặc điều trị y khoa.
Nhân kỷ niệm ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10 và hưởng ứng tháng hành động…
Ngày 30/7/2015 Ban lãnh đạo cùng CBNV Ngân Hàng TMCP Bưu Điện Liên Việt đã…
Ngày 19/7/2015, Bệnh viện Ung bướu Hưng Việt phối hợp với Trung tâm Thông tin,…
Tiếp nối hoạt động thăm khám bệnh cho thương binh, bệnh binh...những người có công…
Đây là hoạt động “Uống nước nhớ nguồn" ý nghĩa, chăm sóc sức khỏe cộng…
Nằm trong chương trình tặng 200 suất khám phát hiện sớm ung thư của bệnh…
This website uses cookies.