Để xác định ung thư đại trực tràng bác sĩ phải xem xét tiền sử của bệnh nhân, tiến hành thăm khám và thực hiện một hoặc nhiều xét nghiệm chẩn đoán.
Ở giai đoạn sớm, ung thư đại trực tràng thường không có biểu hiện rõ ràng, chỉ về sau mới có các triệu chứng đặc hiệu. Bệnh mọc từ lớp mô lót mặt trong của ruột dạng polyp (chồi thịt có cuống), lớn dần thì nhô ra trong lòng ruột, khi phân đi qua cọ vào khối bướu gây chảy máu, tới một thời điểm nhất định thì bít lòng ruột gây tắc ruột. Để tìm ra nguyên nhân gây các triệu chứng này bác sĩ phải xem xét tiền sử của bệnh nhân, tiến hành thăm khám và thực hiện một hoặc nhiều xét nghiệm chẩn đoán:
Thăm khám trực tràng là biện pháp giúp chẩn đoán những dấu hiệu ban đầu của bệnh ung thư đại trực tràng. Một người trên 40 tuổi kể ra các triệu chứng bất thường, bác sĩ dùng ngón tay mang găng sạch thăm khám ruột qua đường hậu môn, không gây ra đau đớn. Ngón tay có thể rờ được khối u sần sùi, rút ngón tay ra có dính máu, đó chính là dấu hiệu cảnh báo nguy cơ cao của ung thư đại trực tràng.
Nội soi ruột là thủ tục kiểm tra ung thư ruột quan trọng nhất, nếu có tình trạng đi vệ sinh ra máu hoặc thói quen đi vệ sinh thay đổi, nhưng kiểm tra trực tràng không phát hiện có điều gì bất thường, cần tiến hành nội soi đại tràng sigma hoặc nội soi sợi ruột kết. Việc nội soi gây mê khiến công việc này trở nên vô cùng nhẹ nhàng và êm ái, người bệnh không còn lo lắng tới cảm giác khó chịu, sợ hãi khi phải tiến hành nội soi theo phương pháp truyền thống.
Hình ảnh mô tả nội soi đại trực tràng
Người bệnh được cho làm sạch ruột. Bác sĩ dùng ống soi mềm đưa vào sâu cách hậu môn khoảng 20 – 25cm hoặc suốt cả khung đại tràng. Bác sĩ soi thấy khối bướu thì sẽ làm thủ thuật lấy mẫu sinh thiết để xác định bệnh.
Soi đại tràng sigma cho phép bác sĩ quan sát bên trong trực tràng và phần dưới đại tràng, có thể cắt pôlyp hoặc mô bất thường để quan sát dưới kính hiển vi. Soi đại tràng cho phép bác sĩ quan sát bên trong trực tràng và toàn bộ đại tràng, cắt pôlyp hoặc mô bất thường để quan sát dưới kính hiển vi.
Chụp X-Quang nguyên cả chiều dài của ruột bằng cách bơm chất bari qua đường hậu môn gọi là chụp khung đại tràng có cản quang. Những hình ảnh bất thường sẽ cho những chẩn đoán về bệnh ung thư đại trực tràng. Khi phát hiện những tổn thương nhỏ còn có khả năng phun khí bari kép cho khoang ruột để tiến hành chụp ảnh so sánh, cho hiệu quả kiểm tra tốt hơn. Kiểm tra X-Quang giúp chúng ta quan sát một cách toàn diện trạng thái của đường ruột, xem có sự hiện diện của các khối u và các tế bào ung thư đa phát không.
Cắt polyp là phương pháp cắt bỏ pôlyp trong khi soi đại tràng sigma hoặc soi đại tràng. Sinh thiết là thủ thuật lấy mẫu mô để bác sĩ giải phẫu bệnh quan sát dưới kính hiển vi và đưa ra chẩn đoán.
Siêu âm, chụp CT hoặc kiểm tra MRI: Những phương pháp kiểm tra này không thể trực tiếp chuẩn đoán ung thư đại trực tràng nhưng có thể xác định được vị trí, kích thước và các tổ chức xung quanh khối u, có giá trị nhất định trong việc phán đoán có di căn hạch và gan hay không, giúp bác sỹ đưa ra phương pháp điều trị tốt nhất cho người bệnh.
CEA: Xác định kháng nguyên carcinoembryonic (CEA) là phương pháp được sử dụng phổ biến, là một trong những bước quan trọng của quá trình chẩn đoán, điều trị ung thư đại trực tràng. Thông thường có giá trị trong việc đánh giá hiệu quả của việc điều trị và tiên lượng bệnh. Liên tục đo mức CEA trong huyết thanh có thể quan sát được hiệu quả của phẫu thuật và hóa trị.
Các giai đoạn ung thư đại trực tràng
Nếu ung thư được chuẩn đoán bác sĩ cần phải biết giai đoạn (hoặc phạm vi) của bệnh. Phân giai đoạn là việc xác định xem ung thư đã lan chưa và nếu đã lan thì đến bộ phận nào của cơ thể. Có thể cần phải thực hiện nhiều xét nghiệm để xác định giai đoạn ung thư. Biết giai đoạn bệnh sẽ giúp bác sĩ đưa ra phác đồ điều trị tối ưu nhất. Mô tả tổn thương theo giai đoạn được trình bày dưới đây:
Giai đoạn 0: Ung thư ở giai đoạn rất sớm. Nó chỉ mới xuất hiện ở lớp niêm mạc trên cùng của đại tràng hoặc trực tràng.
Giai đoạn I: Ung thư lan rộng ra thành trong của đại tràng hoặc trực tràng.
Giai đoạn II: Ung thư đã lan ra bên ngoài đại tràng hoặc trực tràng tới các mô lân cận, nhưng chưa tới hạch.
Giai đoạn III: Ung thư đã lan sang các hạch lân cận, nhưng chưa tới các bộ phận khác của cơ thể.
Giai đoạn IV: Ung thư đã lan sang các bộ phận khác của cơ thể. Ung thư đại trực tràng có xu hướng lan tới gan hoặc phổi.
Hình ảnh mô tả ung thư đại tràng
Tái phát: Ung thư tái phát có nghĩa là ung thư xuất hiện trở lại sau khi điều trị. Bệnh có thể xuất hiện trở lại ở đại tràng hoặc trực tràng hoặc ở một bộ phận khác trong cơ thể.
Nếu việc thăm khám được thực hiện một cách thường xuyên và định kỳ thì việc phát hiện ung thư đại trực tràng ở giai đoạn sớm là hoàn toàn nằm trong tầm tay. Các chuyên gia bệnh viện Ung Bướu Hưng Việt khuyến cáo nếu xuất hiện tình trạng đi vệ sinh ra máu hoặc thói quen đi vệ sinh bị thay đổi, cần đến ngay bệnh viện để kiểm tra, tránh tình trạng trì hoãn điều trị.
Nhân kỷ niệm ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10 và hưởng ứng tháng hành động…
Ngày 30/7/2015 Ban lãnh đạo cùng CBNV Ngân Hàng TMCP Bưu Điện Liên Việt đã…
Ngày 19/7/2015, Bệnh viện Ung bướu Hưng Việt phối hợp với Trung tâm Thông tin,…
Tiếp nối hoạt động thăm khám bệnh cho thương binh, bệnh binh...những người có công…
Đây là hoạt động “Uống nước nhớ nguồn" ý nghĩa, chăm sóc sức khỏe cộng…
Nằm trong chương trình tặng 200 suất khám phát hiện sớm ung thư của bệnh…
This website uses cookies.