Khác với ung thư vú ở nữ giới là một loại ung thư phổ biến nhất và là nguyên nhân gây tử vong do ung thư đứng hàng thứ hai ở nữ giới, ung thư vú ở nam giới là một bệnh hiếm gặp. Bệnh có nhiều điểm giống với ung thư vú ở nữ giới, nhưng cũng có một số điểm rất khác biệt.
Một phân tích ngược các nghiên cứu về ca lâm sàng có đối chứng nhận thấy các yếu tố nguy cơ gây ung thư vú xuất hiện ở nam giới có thể là:
Nhận biết đúng các dấu hiệu ung thư vú ở nam giới từ sớm
Một số tình trạng bệnh làm tăng nguy cơ bệnh ở nam giới có thể gây ra hoặc đi kèm với tình trạng thừa estrogen hoặc thiếu androgen tương đối. Ví dụ, đàn ông bị bệnh gan sẽ tăng sản xuất androstenedion ở tuyến thượng thận, tăng quá trình tạo nhân thơm từ androstenedion thành estron và tăng chuyển estron thành estradiol. Mặt khác, androgen còn có tác dụng bảo vệ mô vú bằng cách ức chế quá trình tăng sinh tế bào. Mối liên hệ giữa ung thư vú ở nam giới và u tiết prolactin là một tình trạng bệnh thường có nồng độ testosteron huyết tương thấp phù hợp với giả thuyết này.
Từ đó người ta cho rằng những thay đổi tương đối về hoóc-môn nam và nữ nội sinh có thể có vai trò nguyên nhân gây ung thư vú ở nam giới. Tuy nhiên người ta không phát hiện được các bất thường về hoóc-môn ở máu ngoại vi những bệnh nhân nam bị ung thư vú. Hơn nữa, những bệnh có tăng tỷ lệ estrogen/testosteron và/hoặc chứng vú to ở đàn ông như béo phì, bệnh tuyến giáp, dùng cần sa, dùng estrogen ngoại sinh (ví dụ: chuyển đổi giới tính, điều trị ung thư tuyến tiền liệt) còn có ít quan hệ với ung thư vú ở nam giới hơn.
Yếu tố nguy cơ mạnh nhất gây bệnh này ở nam giới là hội chứng Klinefelter, đây là một căn bệnh hiếm gặp khi có thừa một nhiễm sắc thể X. Những người đàn ông này có nguy cơ ung thư vú cao gấp 50 lần so với những người đàn ông mang kiểu gen bình thường. Hội chứng Klinefelter gây teo tinh hoàn, vú to, tăng nồng độ các chất hướng sinh dục (hoóc-môn kích thích nang, hoóc-môn tạo hoàng thể) huyết thanh và giảm nồng độ testosteron huyết thanh, từ đó dẫn đến tăng tỷ lệ estrogen/testosteron.
Khoảng 5 -10% các trường hợp ung thư vú ở nữ giới có thể liên quan đến tố bẩm di truyền. Người ta ước tính có khoảng 80% các gia đình có nhiều người bị ung thư vú di truyền theo tính trạng trội trên nhiễm sắc thể thường có mang các gen gây ung thư vú/buồng trứng BRCAi và BCRA2. Theo số liệu hiện có, 4 – 35% bệnh nhân nam có đột biến gen BRCA2, các trường hợp có đột biến gen BRCAi còn ít hơn. Dưới đây là các kết quả đã tìm được:
Bệnh có dấu hiệu điển hình là các khối u rán, không đau, thường ở vùng quầng núm vú hoặc ít gặp hơn là ở 1/4 trên ngoài của vú. Có vẻ u hay xuất hiện bên trái hơn chút ít, dưới 1% các trường hợp có u cả hai bên. Độ tuổi trung bình tại thời điểm bệnh được chẩn đoán là khoảng 66 tuổi.
Các phát hiện khác khi bệnh nhân đến khám gồm có co kéo núm vú, loét đâu vú hoặc da, dính da vào lớp cơ phía dưới, đau và có hạch nách. Chảy máu – thanh dịch hoặc chảy máu núm vú là những biểu hiện không thường gặp.
Có thể bạn quan tâm:
Nhân kỷ niệm ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10 và hưởng ứng tháng hành động…
Ngày 30/7/2015 Ban lãnh đạo cùng CBNV Ngân Hàng TMCP Bưu Điện Liên Việt đã…
Ngày 19/7/2015, Bệnh viện Ung bướu Hưng Việt phối hợp với Trung tâm Thông tin,…
Tiếp nối hoạt động thăm khám bệnh cho thương binh, bệnh binh...những người có công…
Đây là hoạt động “Uống nước nhớ nguồn" ý nghĩa, chăm sóc sức khỏe cộng…
Nằm trong chương trình tặng 200 suất khám phát hiện sớm ung thư của bệnh…
This website uses cookies.