Theo một số nghiên cứu cho thấy hầu hết bệnh Basedow xuất hiện ở nữ giới nhiều hơn là nam giới. Độ tuổi dễ mắc bệnh nhất dao động từ 20 – 50 tuổi. Cho đến hiện nay căn nguyên của bệnh vẫn chưa được xác định cụ thể. Tuy nhiên, một số nghiên cứu chỉ ra rằng bệnh mang tính di truyền cao khoảng 79%. Vậy, dấu hiệu bệnh Basedow là như thế nào và phải làm gì khi phát hiện Basedow , mời bạn tham khảo bài viết sau:
Basedow là một trong nhưng bệnh lý cường giáp thường gặp trên lâm sàng với các biểu hiện chính: Nhiễm độc giáp kèm bướu giáp lớn lan tỏa, lồi mắt và tổn thương ở ngoại biên. Bệnh mang nhiều tên gọi khác nhau bệnh Graves, bệnh Parry, bướu giáp độc lan tỏa, bệnh cường giáp tự miễn. Bệnh thường gặp ở phụ nữ trẻ 20-40 tuổi, có thể khởi phát đột ngột hoặc tiến triển từ từ kèm theo gầy sút cân, mệt mỏi.
Tùy theo số lượng hóc-môn tuyến giáp trong cơ thể mà người mắc Basedow có những biểu hiện khác nhau.
Phân biệt bệnh bazơđô với bệnh bướu cổ do thiếu iốt
Khi có các biểu hiện trên bạn cần tìm đến gặp bác sĩ đúng chuyên môn là vô cùng quan trọng, các bác sĩ sẽ khai thác các triệu chứng lâm sàng và chỉ định các xét nghiệm phục vụ chẩn đoán.
Bệnh basedow cũng có nhiều phương pháp điều trị khác nhau như điều trị nội khoa, phẫu thuật hoặc xạ trị. Tùy theo từng tình trạng bệnh sau chẩn đoán mà bác sĩ sẽ lựa chọn phương pháp phù hợp nhất.
• Điều trị nội khoa: là một trong những phương pháp được ưu tiên sử dụng nhất hiện nay. Khi bệnh mới vừa xuất hiện và không tìm thấy nhân basedow trong bướu và tuyến giáp to vừa, chưa có biến chứng và bệnh nhân có điều kiện để điều trị lâu dài theo dõi bệnh. Tuy nhiên, với phương pháp này người bệnh cần phải kiên trì vì thời gian điều trị lâu, kéo dài từ 12 – 18 tháng. Hiệu quả mà nó mang lại vào khoảng 60 – 70%. Có 3 loại thuốc kháng giáp được sử dụng chủ yếu đó là: Methimazole, carbimazole, PTU. Trong đó PTU được khuyến cáo không sử dụng trong điều trị ban đầu cho bệnh nhân Basedow.
• Xạ trị hay còn gọi là điều trị bằng phóng xạ trị Iod: đây là cách giúp cho tuyến giáp nhỏ lại và hồi phục chức năng bình thường. Phương pháp này thường không áp dụng ở phụ nữ có thai và cho con bú vì có thể gây suy giáp ở trẻ trong quá trình điều trị. Bệnh nhân có tình trạng nhiễm độc nặng hoặc bướu quá lớn chèn ép gây nuốt nghẹn hay sặc, khó thở thì ưu tiên phương pháp phẫu thuật hơn.
• Phẫu thuật: Phương pháp này thường được áp dụng khi người bệnh bị nhiễm độc nặng, khi khối u quá lớn gây chèn ép các cơ quan khác, cản trở ăn uống, hô hấp,… khi mà việc điều trị bằng thuốc hoặc xạ trị không mang lại hiệu quả điều trị. Hầu hết phần tuyến giáp bị bệnh được cắt bỏ hoàn toàn chỉ để lại một phần nhỏ giúp duy trì việc tiết hormon hỗ trợ các chức năng khác. Bên cạnh việc mang lại hiệu quả cao, phương pháp điều trị này cũng không ngoại trừ khả năng để lại một số biến chứng như: Khàn tiếng, nhiễm trùng, hạ canxi máu,… tuy nhiên chúng chỉ chiếm 1% trong tổng số ca phẫu thuật.
Có thể bạn quan tâm:
Nhân kỷ niệm ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10 và hưởng ứng tháng hành động…
Ngày 30/7/2015 Ban lãnh đạo cùng CBNV Ngân Hàng TMCP Bưu Điện Liên Việt đã…
Ngày 19/7/2015, Bệnh viện Ung bướu Hưng Việt phối hợp với Trung tâm Thông tin,…
Tiếp nối hoạt động thăm khám bệnh cho thương binh, bệnh binh...những người có công…
Đây là hoạt động “Uống nước nhớ nguồn" ý nghĩa, chăm sóc sức khỏe cộng…
Nằm trong chương trình tặng 200 suất khám phát hiện sớm ung thư của bệnh…
This website uses cookies.