Làm thế nào để những bệnh nhân ung thư phổi di căn sống lâu hơn? Đừng đi sai bước đầu tiên. Khi chúng ta đã vượt qua giai đoạn hoang mang khi vừa được chẩn đoán mắc bệnh ung thư phổi, chúng ta phải ngay lập tức vượt quả tâm lý chán nản, buồn bã, lo âu và bắt đầu chuẩn bị cho thử thách tiếp theo.
Theo thống kê, trên thế giới hiện nay có 18,1 triệu ca mắc ung thư và 9,6 triệu ca tử vong do ung thư, và ung thư phổi là căn bệnh nguy hiểm và có tỷ lệ tử vong cao nhất toàn cầu.
Ung thư phổi, căn bệnh ung thư phổ biến và gây tử vong hàng đầu trên thế giới, có thể gặp ở cả nam và nữ, bệnh phát triển âm thầm theo thời gian. Khi đường kính của khối u ác tính dưới 1cm và lớn dần lên có thể di căn qua đường hô hấp ở người bệnh, đặc biệt tế bào ung thư phổi có thể di căn qua đường máu, di căn theo đường bạch huyết đến các hạch bạch huyết.
Khi bệnh ở giai đoạn cuối và tiên lượng không còn, người bệnh chỉ được điều trị hỗ trợ để giảm đau, ngăn ngừa biến chứng và kéo dài thời gian sống.
Sở dĩ ALK được gọi là “đột biến kim cương” là vì đối với bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ dương tính với ALK chỉ có khoảng 3-8% bệnh nhân có đột biến gen này, và một ý nữa có rất nhiều loại thuốc điều trị đích để lựa chọn, dưới tác dụng của những loại thuốc nhắm đích ưu việt này, rất nhiều bệnh nhân có cơ hội kéo dài thời gian sống vượt qua mốc 5 năm.
Vậy quá trình chống ung thư của bệnh nhân ung thư phổi là một cuộc chiến trường kỳ, và để giành chiến thắng trong cuộc chiến trường kỳ này, việc trang bị vũ khí gồm những phương pháp điều trị chống ung thư là vô cùng quan trọng.
Trong thập kỷ qua, nhiều đột biến gen liên quan đến ung thư phổi không phải tế bào nhỏ đã được phát hiện ở 16 gen, bao gồm AKT1, ALK, BRAF, DDR2, EGFR, FGFR1, HER2, KRAS, MEK1, MET, NRAS, NTRK1, PIK3CA, PTEN, RET và ROS1. Một số đột biến di truyền này đã được nghiên cứu kỹ lưỡng ở cấp độ gen (trình tự các nucleotit) và cấp độ protein (trình tự axit amin trong chuỗi polipeptit của protein).
Thông qua các thử nghiệm lâm sàng đã được chứng minh có tác dụng tăng độ nhạy, một số đột biến làm giảm độ nhạy đối với liệu pháp nhắm mục tiêu và một số đột biến hiện vẫn chưa rõ về ý nghĩa lâm sàng.
Khi nhiều người mới bắt đầu điều trị, họ thường nghe nói về “phương pháp điều trị ung thư phổi giai đoạn cuối” hoặc thấy “một loại thuốc nhắm đích mới được phê duyệt để điều trị ALK bậc hai” từ một số thông tin y tế.
Tại thời điểm này, nhiều người tìm kiếm thường có những câu hỏi như: Chính xác thì phương pháp điều trị bậc 1, bậc 2 và bậc 3 đề cập đến điều gì?
Trên thực tế, trong quá trình chống chọi với ung thư, bạn có thể phải đối mặt với hết “điểm kiểm soát” này đến “điểm kiểm soát” khác, các phương pháp điều trị bậc 1, hàng bậc 2 và hàng bậc 3 tương đương với các “tuyến phòng thủ” cho từng điểm kiểm soát bệnh, đảm bảo sự sống của bệnh nhân thông thường:
Tất nhiên, phác đồ điều trị cho từng tuyến phòng thủ là không cố định, thông thường các bác sĩ sẽ căn cứ vào hướng dẫn điều trị của bệnh nhân để đưa ra phương pháp điều trị phù hợp nhất, kết hợp với giai đoạn bệnh lý, thể trạng, hoàn cảnh kinh tế… cũng như hiệu quả của bệnh nhân về việc đáp ứng thuốc ở các lựa chọn điều trị bậc một, bậc hai và bậc ba cho bệnh nhân.
Các hướng dẫn lâm sàng được sử dụng phổ biến nhất trong cộng đồng ung thư là hướng dẫn của NCCN (Hoa Kỳ)
Hướng dẫn NCCN là hướng dẫn thực hành lâm sàng đối với các khối u ác tính do Mạng lưới Ung thư Toàn diện Quốc gia công bố, được các bác sĩ lâm sàng trên toàn thế giới công nhận và tuân theo. Các mức phân loại bằng chứng theo hướng dẫn của NCCN từ cao xuống thấp là: loại 1, loại 2A, loại 2B và loại 3; các mức khuyến nghị là: ưu tiên, các khuyến nghị khác và có sẵn trong một số trường hợp.
Hướng dẫn này đóng một vai trò rất quan trọng trong việc ra quyết định lâm sàng của các bác sĩ ung thư. Hôm nay, chúng ta sẽ tập trung nói về “vũ khí” chống ung thư bậc 1 đầu tiên được khuyến cáo bởi hướng dẫn của NCCN cho bệnh nhân ung thư phổi dương tính với ALK.
Trong hướng dẫn NCCN 2022.V3 về ung thư phổi không tế bào nhỏ, các lựa chọn điều trị đầu tay cho bệnh ung thư phổi không tế bào nhỏ dương tính với ALK chủ yếu bao gồm [1] :
Nếu dương tính với ALK được tìm thấy trước khi điều trị toàn thân bước đầu:
Nếu dương tính với ALK được tìm thấy trong quá trình điều trị toàn thân đầu tiên :
Chúng ta có thể thấy rằng cho dù đó là hướng dẫn của NCCN, đối với bệnh nhân ung thư phổi dương tính với ALK, phương pháp điều trị đầu tay quan trọng nhất vẫn là liệu pháp nhắm đích. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng tất cả các lựa chọn điều trị cho bệnh nhân ung thư phổi dương tính với ALK cần được lựa chọn dưới sự hướng dẫn của bác sĩ và lựa chọn của mỗi người có thể khác nhau.
Chúng ta phải biết trên đời này không có loại thuốc nào hoàn hảo, chỉ có phương án điều trị phù hợp nhất.
Ngoài ra nếu mọi người viện mà được bác sĩ gợi ý tham gia chương trình thử nghiệm thuốc trong lâm sàng, nhằm khám phá thêm các lựa chọn mới trong việc sử dụng thuốc ở bệnh nhân ung thư phổi dương tính với ALK thì cũng nên tham gia, cũng là vừa cơ hội để cho mình kéo dài thời gian sống. Đồng thời, thúc đẩy sự tiến bộ của các thử nghiệm lâm sàng cũng có thể thúc đẩy việc cập nhật các hướng dẫn, cho phép đưa nhiều loại thuốc hơn vào hướng dẫn và mang lại lợi ích cho nhiều bệnh nhân ung thư phổi dương tính với ALK hơn.
[Có thể bạn chưa biết] Kiến thức ung thư phổi
Di căn não là một trở ngại trong điều trị ung thư phổi, một khi ung thư phổi di căn não xảy ra, không chỉ thời gian sống của bệnh nhân bị rút ngắn rất nhiều mà các triệu chứng do di căn não gây ra cũng sẽ khiến người bệnh bị hành hạ không thể chịu nổi.
Trước đây, hiện tượng di căn lan rộng, trong đó có di căn não, được coi là hiện tượng chỉ xuất hiện ở ung thư phổi giai đoạn cuối, nhưng những nghiên cứu gần đây cho thấy, sự xuất hiện của di căn có thể xảy ra đồng thời với sự phát triển của khối u nguyên phát [2-3]
Điều này nhắc nhở chúng ta rằng trong phương pháp điều trị đầu tiên đối với bệnh ung thư phổi dương tính với ALK, di căn não nên được can thiệp trước.
Không dễ can thiệp vào di căn não, vì não có một bức tường kiên cố gọi là “hàng rào máu não”, ban đầu được sử dụng để bảo vệ mô não khỏi sự xâm nhập của các chất có hại trong máu. Tuy nhiên, sự hiện diện của nó cũng ngăn cản một số loại thuốc nhắm mục tiêu ALK xâm nhập vào não và phát huy tác dụng chống ung thư của chúng [5] .
Ví dụ, thuốc ức chế ALK thế hệ thứ nhất crizotinib rất khó xuyên qua hàng rào máu não và nồng độ crizotinib trong dịch não tủy chỉ bằng 0,26% nồng độ trong máu, khiến hầu hết bệnh nhân phát triển tình trạng kháng thuốc mắc phải trong vòng một năm , khoảng một nửa số bệnh nhân có biểu hiện di căn não [6-9] .
Nếu tăng được tính thấm hàng rào máu não của thuốc ức chế ALK thì có thể kiểm soát tốt hơn các tế bào ung thư trong não, từ đó có thể can thiệp sớm di căn não.
Các loại thuốc đích ALK thế hệ thứ hai alectinib, brigatinib và lorlatinib thế hệ thứ ba đã tối ưu hóa cấu trúc thuốc của chúng trên cơ sở crizotinib, chẳng hạn như trọng lượng phân tử thấp hơn và dòng hoạt chất hòa tan trong chất béo ít hơn và tốt hơn, v.v. các phân tử thuốc vượt qua hàng rào máu não, do đó tăng cường tác dụng chống ung thư di căn não.
Do đó, các loại thuốc đích ALK thế hệ thứ hai và thứ ba có thể khiến bệnh nhân ung thư phổi dương tính với ALK đối phó với kẻ thù di căn não sớm hơn, do đó sẽ kéo dàu thời gian sống lâu hơn cho bệnh nhân [10,11].
Đột biến gen ALK ai cũng sẽ có tiên lượng tốt hơn so với đột biến gen khác, nhưng không có nghĩa là bệnh nhân ung thư phổi dạng này có thể thuận buồm xuôi gió trong cuộc chiến chống ung thư, đa số bệnh nhân cũng sẽ gặp phải những khó khăn sau:
Trong thời gian điều trị đích phải tuyệt đối tuân theo lời dặn của bác sĩ, điều độ thuốc một cách khoa học, tuyệt đối không được tự ý ngừng thuốc, tự ý tăng giảm liều lượng, bỏ sót hoặc quên uống.
Nhưng một số bệnh nhân có thể lo lắng, nếu họ thực sự bỏ lỡ một liều và quên uống thì sao?
Lúc này đừng quá lo lắng, bởi vì liệu pháp nhắm đích cần dùng thuốc lâu dài, thỉnh thoảng bỏ lỡ một hai liều sẽ không ảnh hưởng đặc biệt lớn đến toàn bộ quá trình điều trị. Tuy nhiên, cần đặc biệt lưu ý, nếu muốn dùng liều bổ sung thì trước khi dùng thuốc phải đọc kỹ hướng dẫn sử dụng thuốc, hoặc kịp thời hỏi ý kiến bác sĩ để có những lưu ý khi dùng liều bổ sung. Liều quá ngắn hoặc tăng liều mà không được phép, mà nó có thể làm tăng tác dụng phụ của thuốc lớn.
Thuốc nhắm trúng đích ALK cũng không ngoại lệ nên các tác dụng phụ là điều khó tránh khỏi trong quá trình điều trị đích. Tuy nhiên, chúng ta có thể tìm hiểu trước về các tác dụng phụ có thể xảy ra của các loại thuốc nhắm đích ALK khác nhau.
Khi các tác dụng phụ xảy ra, chúng ta có thể bình tĩnh và xử lý chúng một cách bình tĩnh. Khi các tác dụng phụ nghiêm trọng, chúng ta phải tham khảo ý kiến bác sĩ để đánh giá và điều trị đúng.
Vì vậy, trong việc lựa chọn thuốc điều trị, ngoài việc xem xét kéo dài thời gian sống tác dụng chữa bệnh mang lại, chúng ta cũng cần xem xét tính an toàn của thuốc để giảm tác dụng phụ của thuốc đến chất lượng cuộc sống trong quá trình điều trị tốt hơn đối với bệnh nhân.
Ví dụ, Alectinib, mới được ra mắt cách đây một thời gian tại Việt Nam, là chất ức chế ALK đầu tiên được các nghiên cứu lâm sàng chứng minh là có cả hiệu quả và lợi ích về chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân, tốt hơn crizotinib trong việc cải thiện và duy trì chất lượng cuộc sống của bệnh nhân, với một sự khác biệt đáng kể [12].
Sau một thời gian điều trị bước đầu cho bệnh ung thư phổi dương tính với đột biến gen ALK, mọi bệnh nhân đều phải đối mặt và vượt qua tình trạng kháng thuốc.
Nói chung, sau khi kháng trị lần đầu, bệnh nhân nên tiến hành xét nghiệm đột biến gen một lần nữa để làm rõ loại đột biến gây nên kháng thuốc, hoặc sinh thiết mô xem có bị biển đổi mô học không UTPKTBN sang dạng Vảy, tế bào nhỏ… Do đó thay thế kế hoạch điều trị phù hợp nhất theo cách nhắm đích.
Tóm lại: Điều trị bước đầu là rào cản đầu tiên để bệnh nhân ung thư phổi dương tính với ALK chống lại ung thư, vì vậy rào cản này có ý nghĩa rất lớn đối với mỗi bệnh nhân, phải mạnh mẽ và đối mặt vượt qua mọi thử thách
Các hướng dẫn lâm sàng trong và ngoài nước coi liệu pháp nhắm trúng đích là phương pháp điều trị quan trọng nhất đối với ung thư phổi dương tính với ALK, tuy nhiên, có rất nhiều loại thuốc nhắm trúng đích ALK cần được các bác sĩ lâm sàng cân nhắc và hình thành cẩn thận để lựa chọn liệu pháp nhắm trúng đích phù hợp nhất cho bệnh nhân.
Tỷ lệ ung thư phổi di căn não dương tính với ALK là tương đối cao và việc can thiệp di căn não nên được xem xét đầu tiên trong điều trị. Ngoài ra, trong quá trình điều trị đích cũng cần chuẩn hóa thuốc và chủ động xử lý các tác dụng phụ.
Đừng hoang mang khi gặp tình trạng kháng thuốc, cố gắng cải thiện tâm lý, sống một cuộc sống lạc quan, bổ sung dinh dưỡng, tập luyện thể thao giúp bệnh nhân ung thư phổi tăng cường miễn dịch giảm tình trạng kháng thuốc, kéo dài thời gian sống!
Có thể bạn quan tâm:
[1] NCCN clinical practice guidelines in Oncology: Non-Small Cell Lung Cancer(2022.V3)
[2] Rosell R, Karachaliou N. Relationship between gene mutation and lung cancer metastasis. Cancer Metastasis Rev. 2015;34(2):243-248.
[3] Comen E, Norton L, Massagué J. Clinical implications of cancer self-seeding. Nat Rev Clin Oncol. 2011;8(6):369-377.
[4] Toyokawa G, Seto T, Takenoyama M, Ichinose Y. Insights into brain metastasis in patients with ALK+ lung cancer: is the brain truly a sanctuary?. Cancer Metastasis Rev. 2015;34(4):797-805.
[5] Daneman R, Prat A. The blood-brain barrier. Cold Spring Harb Perspect Biol. 2015;7(1):a020412. Published 2015 Jan 5.
[6] Costa DB, Kobayashi S, Pandya SS, et al. CSF concentration of the anaplastic lymphoma kinase inhibitor crizotinib. J Clin Oncol. 2011;29(15):e443-e445.
[7] Katayama R, Shaw AT, Khan TM, et al. Mechanisms of acquired crizotinib resistance in ALK-rearranged lung Cancers. Sci Transl Med. 2012;4(120):120ra17.
[8] Camidge DR, Kim HR, Ahn MJ, et al. Brigatinib versus Crizotinib in ALK-Positive Non-Small-Cell Lung Cancer. N Engl J Med. 2018;379(21):2027-2039.
[9] Zhang S, Anjum R, Squillace R, et al. The Potent ALK Inhibitor Brigatinib (AP26113) Overcomes Mechanisms of Resistance to First- and Second-Generation ALK Inhibitors in Preclinical Models. Clin Cancer Res. 2016;22(22):5527-5538.
[10] Cheng H, Perez-Soler R. Leptomeningeal metastases in non-small-cell lung cancer. Lancet Oncol. 2018;19(1):e43-e55.
[11] Naito T, Shiraishi H, Fujiwara Y. Brigatinib and lorlatinib: their effect on ALK inhibitors in NSCLC focusing on resistant mutations and central nervous system metastases. Jpn J Clin Oncol. 2021;51(1):37-44.
[12] Alectinib vs crizotinib in Asian patients with treatment-naïve advanced ALK+ non-small cell lung cancer: 5-year update from the Phase 3 ALESIA study.ESMO Asia 2022
Nhân kỷ niệm ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10 và hưởng ứng tháng hành động…
Ngày 30/7/2015 Ban lãnh đạo cùng CBNV Ngân Hàng TMCP Bưu Điện Liên Việt đã…
Ngày 19/7/2015, Bệnh viện Ung bướu Hưng Việt phối hợp với Trung tâm Thông tin,…
Tiếp nối hoạt động thăm khám bệnh cho thương binh, bệnh binh...những người có công…
Đây là hoạt động “Uống nước nhớ nguồn" ý nghĩa, chăm sóc sức khỏe cộng…
Nằm trong chương trình tặng 200 suất khám phát hiện sớm ung thư của bệnh…
This website uses cookies.