Gist ruột non

Câu hỏi: Chồng tôi bị khối u ở ruột, đã phẩu thuật cách đây hai năm, bệnh án là gist ruột non, bs cho uống thuốc givec một năm, nay lại xuất hiện thêm một khối u khác, vừa phẩu thuật xong, bs nói còn nhiều hạt li ti. Tôi rất lo lắng không biết bệnh này còn có cách nào khác để điều trị không, hay chỉ uống loại thuốc givec? Bệnh viện ung bướu Hưng Việt điều trị loại bệnh này như thế nào, xin bs tư vấn cho gia đình tham khảo.

Trả lời

Chào bạn Lành thân mến,

U MÔ ĐỆM ĐƯỜNG TIÊU HÓA

U MÔ ĐỆM ĐƯỜNG TIÊU HÓA (GIST: gastrointestinal stromal tumor) là loại u thường gặp nhất trong các loại u trung mô (mesenchymal tumor) đường tiêu hóa, chiếm tỷ lệ khoảng 1-3% tất cả các u ác tính đường tiêu hóa, với tỷ lệ 6-20 trên 1 triệu dân số. Hầu hết u phát xuất từ dạ dày (60%), kế tiếp là từ ruột non (30%), và hiếm hơn ở thực quản và đại tràng (<5%).

Gist ruột non
Hình ảnh Gist ruột non – u mô đệm đường tiêu hóa

U mô đệm đường tiêu hoá có triệu chứng lâm sàng không đặc hiệu, phát hiện chủ yếu bằng hình ảnh học như chụp cắt lớp vi tính, siêu âm qua nội soi đường tiêu hóa, siêu âm, X quang… Chẩn đoán xác định cuối cùng phải dựa vào mô học, đặc biệt là hóa mô miễn dịch.

Trước đây, u thường được chẩn đoán là u cơ trơn do bởi hình thái mô học giống nhau. Tại Việt Nam , u mô đệm mới được chẩn đoán rất gần đây nhờ vào hóa mô miễn dịch. U thường đề kháng với hóa trị liệu kinh điển và xạ trị, việc điều trị bệnh còn nhiều vấn đề phức tạp.

Sự ra đời của chất ức chế thụ thể tyrosine kinas đã làm nên một cuộc cách mạng trong điều trị u mô đệm, tuy nhiên đáp ứng lâm sàng với hóa trị liệu nhắm trúng đích liên quan với loại đột biến khác nhau.

Về ĐIỀU TRỊ VÀ TIÊN LƯỢNG:

Sự cắt bỏ khối u bằng phẫu thuật là điều trị được lựa chọn hàng đầu với tỷ lệ sống 5 năm 48-54%.

Đối với những u nhỏ, cắt bỏ u với bờ cắt không còn tế bào ác tính là đủ. Tuy nhiên, đối với u tiến triển và không cắt được, phẫu thuật không phải là phương pháp điều trị hiệu quả.

Không may thay, hầu hết u trung mô đề kháng với xạ trị và hóa trị liệu kinh điển (conventional chemotherapy)với thời gian sống trung bình chỉ từ 12 đến 19 tháng ở những bệnh tiến triển và không cắt bỏ được u. Khoảng 50% bệnh tái phát hoặc di căn sau phẫu thuật lấy bỏ u nguyên phát, và những bệnh này đề kháng với hóa trị và xạ trị.

+ Thuốc ức chế tyrosine kinase (tyrosine kinase inhibitors) là nhóm thuốc mới trong liệu pháp kháng ung thư và những thuốc này cho thấy vai trò rất quan trọng trong điều trị. Cơ chế đề kháng thứ phát với hóa trị liệu nhắm trúng đích của u mô đệm vẫn chưa được biết hết và còn cần nhiều nghiên cứu thêm nữa.

+ Hoá trị dựa trên Platinum ở dạng phối hợp như epirubicin/cisplatin/5-FU hoặc docetaxel/cisplatin/5-FU là những phác đồ hoá trị GIST hàng đầu hiện nay. Các phối hợp hiệu quả khác bao gồm: irinotecan+ cisplatin hoặc oxaliplatin+ irinotecan.
+ Bevacizumab, một kháng thể đơn dòng (monoclonal antibody) chống lạị yếu tố tăng trưởng nội mạc mạch máu (vascular endothelial growth factor=VEGF) đang được đánh giá để dùng cho GIST giai đoạn muộn.

Gleevec (Imatinib Mesylate) là thuốc chống ung thư thế hệ mới được dùng mỗi ngày một viên.

Nghiên cứu dùng Gleevec để điều trị cho bệnh nhân bị GIST, với khối u không thể cắt bỏ, cho kết quả:

– 38% giảm kích thước khối u ít nhất là một nửa.

– 59% lui bệnh.

– 75% có những cải thiện rõ rệt.

Sau điều trị, nhiều bệnh nhân nặng đã có thể đi lại và cảm thấy khỏe khoắn. Một số người đi làm trở lại và có cuộc sống bình thường. Trước khi điều trị, một số bệnh nhân từng có khối u nặng tới 9-11,5 kg và tưởng đã hết hy vọng. Tác dụng phụ được ghi nhận thường là nhẹ đến trung bình, và gồm: giữ nước, buồn nôn, nôn, tiêu chảy, nổi ban trên da, đau cơ, ngộ độc gan và giảm số lượng tế bào máu.

+ Sutent (Sunitinib Malate)

Những bệnh nhân với GIST tiến triển đang được điều trị hoặc chấp nhận điều trị bằng liệu pháp imatinib dòng đầu thường bắt đầu dòng trị liệu thứ hai với liệu sunitinib malate. Sunitinib nhắm đến KIT, PDGFR-α và β-PDGFR; một vài thụ thể nhân tố làm tăng trưởng nội mô mạch máu (VEGFR1, VEGFR2, và VEGFR3; thụ thể hồi protoonocogene (RET); và tyrosine kinase-3 giống Fms (Flt3). Một thử nghiệm giai đoạn III kiểm soát bằng giả dược đã cho thấy sự cải thiện thời gian đến khi bệnh tiến triển ở những bệnh nhân được điều trị với sunitinib so với những người được điều trị bằng giả dược (27.3 so với 6.4 tuần ở các nhóm, P<0.0001) cũng như PFS và OS. Trên cơ sở của những dữ liệu này, sunitinib đã được chấp nhân bởi FDA như phương thức trị liệu dòng hai cho những bệnh nhân với tình trạng GIST tiến triển.

Sunitinib được sử dụng ban đầu với liều 50mg/ngày trong chu kì 4 tuần nghỉ 2 tuần. Tuy nhiên vi những lo ngại ban đầu về những tác dụng phụ có tiềm năng, triệu chứng của chuyển hoá vật chất đã cho thấy sự tái kích hoạt tình trạng bệnh trong 2 tuần ngưng điều trị, và/hoặc những vấn đề chấp nhận được, rất nhiều các nhà ung bước học đề nghị phương pháp điều trị liên tục với liều 37.5mg đã được báo cáo đem lại hiệu quả tương tự.

Như vậy, trường hợp chồng bạn, bạn nên tham khảo kỹ các thông tin trên và theo dõi khám định kỳ cho anh, nếu cần thì phẫu thuật, hoặc dùng thuốc theo chỉ định của bác sĩ. Hoang mang lo lắng không giúp được gì mà phải quan tâm, theo dõi đúng cách chị ạ.

Chúc chị thành công.

Thân ái,

Câu hỏi khác

HỆ THỐNG Y TẾ HƯNG VIỆT

Bệnh viện Ung bướu Hưng Việt

Phòng khám Đa khoa Hưng Việt

CÔNG TY CỔ PHẦN KINH DOANH HƯNG VIỆT
ĐKKD số: 0105532379 – Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội cấp lần đầu ngày 29/09/2011
Giấy phép hoạt động khám bệnh, chữa bệnh số 29/BYT – GPHĐ do Bộ y tế cấp ngày 29/01/2013

DMCA.com Protection Status

BỆNH VIỆN UNG BƯỚU HƯNG VIỆT

Số 34 Đường Đại Cồ Việt, Hai Bà Trưng, Hà Nội

PHÒNG KHÁM ĐA KHOA HƯNG VIỆT

Số 40 Đường Đại Cồ Việt, Hai Bà Trưng, Hà Nội

HOTLINE 

024 6250 0707 – 0942 300 707

info@benhvienhungviet.vn

Facebook Fanpage Youtube Chanel
Copyright 2021 © Bệnh Viện Ung Bướu Hưng Việt