10 câu hỏi hay gặp nhất đối với bệnh nhân ung thư phổi khi dùng thuốc ĐÍCH

post

Phương pháp này sử dụng các thuốc có khả năng tiêu diệt các tế bào tăng sinh mạnh (không phân biệt tế bào ung thư hay tế bào thường), nhờ đó kéo dài thời gian sống trung bình. Hiệu quả của thuốc đích với bệnh nhân ung thư phổi tương đối đáng tin cậy, tỷ lệ hiệu quả cao và thời gian khởi phát tương đối nhanh. 

1. LIỆU PHÁP NHẮM TRÚNG ĐÍCH LÀ GÌ?

NÓ KHÁC VỚI CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ TRUYỀN THỐNG NHƯ THẾ NÀO?

Thuốc điều trị đích được bào chế theo mục tiêu, giống như chìa khóa và ổ khóa, chìa khóa mở được ổ khóa, đây là liệu pháp nhắm trúng đích. Liệu pháp nhắm đích và hóa trị liệu khác với các phương pháp điều trị khác, nó thuộc về liệu pháp chính xác, nếu có đột biến gen và sẽ được sử dụng các loại thuốc nhắm tiêu đích tương ứng, thì hiệu quả sẽ tốt hơn, tỷ lệ hiệu quả nói chung có thể đạt khoảng 70%, và một số loại thuốc có thể đạt tới 80%.

Một điều nữa là hiệu quả chữa bệnh của nó tương đối đáng tin cậy, tỷ lệ hiệu quả cao và thời gian khởi phát tương đối nhanh, thông thường có thể thấy hiệu quả trong một hoặc hai tuần. Tất nhiên, một hoặc hai tuần chủ yếu phụ thuộc vào triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân, ho có giảm không, ho ra máu có giảm không, đau ngực có giảm không, khó thở có giảm không, cân nặng có tăng không, cảm giác thèm ăn có được cải thiện hay không…

Hai là chỉ số xét nghiệm dấu ấn khối u có giảm hay không. Tiêu chuẩn phán đoán đáng tin cậy nhất, tức là tiêu chuẩn vàng, là hình ảnh, nói chung, khối u trên hình ảnh sẽ mất khoảng một hoặc hai tháng để thu nhỏ lại. Đây là tính năng đầu tiên của nó, xác định xem bệnh nhân có đáp ứng không.

Đặc điểm thứ hai là ít tác dụng phụ, trong quá trình hóa trị, các phản ứng ở đường tiêu hóa của bệnh nhân tương đối nghiêm trọng như buồn nôn, nôn, ức chế tủy xương, rụng tóc dẫn đến khả năng miễn dịch thấp. Bệnh nhân thường cảm thấy khó chịu trong quá trình hóa trị, thậm chí còn cảm thấy khó chịu trong khoảng một hoặc hai tuần sau khi hóa trị. Liệu pháp nhắm đích cũng có tác dụng phụ rõ ràng, thứ nhất là tiêu chảy, thứ hai là phát ban, viêm quanh móng…..là một tác dụng phụ tương đối phổ biến.

Tỷ lệ tác dụng phụ khác nhau giữa các loại thuốc. Erlotinib (thuốc nhắm đích EGFR thế hệ đầu tiên) dễ bị phát ban và phát ban của nó tương đối nghiêm trọng, nhưng phát ban càng nặng thì hiệu quả của nó càng chứng tỏ bệnh nhân đáp ứng thuốc tốt.

Hầu hết bệnh nhân đều có tác dụng phụ tương đối nhẹ như tiêu chảy, phát ban, viêm quanh móng, không cần ngừng thuốc, sau một hai tháng đến hai ba tháng sẽ quen, vì những tác dụng phụ này không quá nặng nên số ít bệnh nhân ngừng dùng thuốc.

2. NHỮNG BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI NÀO PHÙ HỢP VỚI ĐIỀU TRỊ ĐÍCH?

NHỮNG XÉT NGHIỆM NÀO LÀ CẦN THIẾT TRƯỚC KHI ĐIỀU TRỊ ĐÍCH?

Làm sao biết để được dùng đích thì phải làm xét nghiệm đột biến gen di truyền. Hiện tại, các loại gen phổ biến như (EGFR), (ALK), ROS1. Có các loại đột biến gen hiếm khác, chẳng hạn như khuếch đại c-MET, gen hợp nhất HER2, BRAF, RET, v.v. Hiện nay có ít nhất 10 gen tương đối rõ ràng trong ung thư phổi và hầu hết đã có thuốc điều trị đích, nhưng hiệu quả nhất vẫn là thuốc điều trị đột biến gen EGFR, ALK và ROS1.
Ung thư phổi bao gồm ung thư phổi tế bào nhỏ và ung thư phổi không tế bào nhỏ, ung thư phổi tế bào nhỏ chiếm khoảng 15%, còn lại là ung thư phổi không tế bào nhỏ, tỷ lệ đột biến gen EGFR khôn tế bào nhỏ chiếm khoảng 40%. . Trong ung thư phổi không phải tế bào nhỏ có các loại ung thư biểu mô tế bào vảy, ung thư biểu mô tuyến và ung thư biểu mô tế bào lớn, tỷ lệ đột biến ở ung thư biểu mô tuyến là cao nhất, có thể lên tới khoảng 60%.

Đặc biệt là ung thư biểu mô tuyến, phụ nữ, người không hút thuốc, bệnh nhân có tỷ lệ đột biến gen EGFR cao. Hiện nay trên thị trường có ba thế hệ thuốc đích này dành cho gen EGFR

  • Thuốc thứ hệ nhất là gefitinib, erlotinib,
  • Thuộc thế hệ thứ 2 là afatinib, dacomitinib
  • Thuốc thế hệ thứ ba là thuốc có tên là osimertinib

Sự khác biệt giữa thế hệ thứ hai và thế hệ thứ nhất là gì? Lý do phát minh ra thuốc nhắm trúng đích thế hệ thứ hai là để khắc phục tình trạng kháng thuốc của thế hệ thứ nhất và cách chữa bệnh. Đặc điểm của thuốc thế hệ thứ hai là sự kết hợp giữa thuốc và thụ thể là không thể đảo ngược, không dễ bỏ sót mục tiêu, so với thuốc thế hệ thứ nhất, nó kết hợp chắc chắn hơn, không dễ rơi ra , vì vậy hiệu quả chữa bệnh của nó tốt hơn so với thuốc thế hệ đầu tiên. . Nhưng đồng thời, vì nó là một sự kết hợp đa mục tiêu, không thể đảo ngược, nên tác dụng phụ của nó cũng rất lớn.

Hiện có một loại thuốc thế hệ thứ ba chúng ta hay gặp là osimertinib là thuốc liên kết chọn lọc với vị trí đột biến nên tính đặc hiệu rất mạnh, chủ yếu thích hợp với những bệnh nhân bị kháng thuốc thế hệ thứ nhất và thứ hai, khi nó xuất hiện (đột biến T790M) gây ra kháng thuốc thế hệ 1 và 2.

Đồng thời, osimertinib cũng có hiệu quả đối với các đột biến nhạy cảm của EGFR, chủ yếu là đột biến exon 19 và đột biến L858 exon 21.

10 câu hỏi hay gặp nhất đối với bệnh nhân ung thư phổi khi dùng thuốc ĐÍCH

3. NẾU ĐIỀU TRỊ HÓA CHẤT CÓ HIỆU QUẢ VÀ KHỐI U CỦA BỆNH NHÂN CÓ XU HƯỚNG NHỎ LẠI THÌ LIỆU CÓ CẦN SỬ DỤNG LIỆU PHÁP TRÚNG ĐÍCH NỮA KHÔNG?

Trên thực tế, đây là một vấn đề tương đối phổ biến, sau khi một số bệnh nhân đã trải qua xét nghiệm đột biến gen, nhưng bệnh nhân không muốn đợi đến tuần đó và yêu cầu điều trị thuốc đích càng sớm càng tốt.
Trong những trường hợp bình thường, bệnh nhân như chúng ta phải được bác sĩ yêu cầu trước tiên nên làm sinh thiết để chẩn đoán ung thư phổi và đó là ung thư phổi không tế bào nhỏ, sau đó làm xét nghiệm đột biến gen di truyền để xem có đột biến gen hay không.

Nếu có đột biến gen thì liệu pháp nhắm đích là lựa chọn hàng đầu, nếu không có đột biến gen thì liệu pháp miễn dịch là lựa chọn hàng đầu, nếu liệu pháp miễn dịch không phù hợp thì hóa trị là lựa chọn hàng đầu, đây là ba chiến lược cơ bản hiện nay.

Trước khi có kết quả xét nghiệm di truyền, một số bệnh nhân đã được hóa trị. Nói chung, một khi hóa trị liệu có hiệu quả, mình vẫn ủng hộ hóa trị liệu như phương pháp điều trị đầu tay cho đến khi đủ liệu trình điều trị. Hoặc là hóa trị bước đầu không đủ liệu trình mà lại phát sinh kháng thuốc hóa chất, lúc này nên chấm dứt hóa trị, nhưng tiền đề là phải có đột biến gen dùng mới dùng được đích, đây là nguyên tắc cơ bản.

Hóa trị một khi dùng có hiệu quả thì kiên trì điều trị đủ đợt, sau khi có tiến triển thì dùng điều trị đích, đương nhiên hiện nay còn có một xu hướng nữa là hóa trị đích kết hợp, để kéo dài thời gian điều trị hiệu quả, trì hoãn kháng thuốc và làm cho bệnh nhân sống sót lâu hơn.

4. ĐỐI VỚI BỆNH NHÂN PHẪU THUẬT CẮT BỎ KHỐI U CÓ CẦN DÙNG THUỐC ĐIỀU TRỊ TRÚNG ĐÍCH BỔ TRỢ ĐỂ GIẢM NGUY CƠ UNG THƯ TÁI PHÁT VÀ DI CĂN KHÔNG?

Đây cũng là một phương pháp điều trị thường được sử dụng trong thực hành lâm sàng. Nói chung, đối với những bệnh nhân có khối u ở giai đoạn IA, liệu pháp bổ trợ thường không được ủng hộ sau phẫu thuật, cũng như hóa trị, xạ trị, thuốc đích hoặc miễn dịch và đây là nguyên tắc cơ bản.

Đối với những bệnh nhân ở giai đoạn IB, giai đoạn II và giai đoạn III sau khi phẫu thuật, người ta thường chủ trương sử dụng liệu pháp bổ trợ và hóa trị liệu là phương pháp cổ điển nhất trong liệu pháp bổ trợ. Hiện tại, bằng chứng về liệu pháp nhắm đích là tương đối đầy đủ, ví như một số nghiên cứu đã rất tốt.

Nghiên cứu ADJUVANT bao gồm những bệnh nhân giai đoạn Ⅱ-ⅢA có thể phẫu thuật và so sánh liệu pháp nhắm mục tiêu gefitinib bổ trợ sau phẫu thuật và hóa trị liệu bổ trợ. Thuốc có thể kéo dài đáng kể thời gian sống sót không bệnh tật (DFS) của bệnh nhân.

Mặt khác, nghiên cứu ADAURA bao gồm những bệnh nhân mắc bệnh ung thư phổi không phải tế bào nhỏ được đột biến EGFR giai đoạn IB-IIIA đã nhận được osimertinib bổ trợ sau phẫu thuật. Kết quả cho thấy việc sử dụng osimertinib như liệu pháp bổ trợ sau phẫu thuật ở bệnh nhân giai đoạn IB đến IIIA (trong dân số chung) có thể làm giảm 79% nguy cơ tái phát bệnh hoặc tử vong. Osimertinib có thể cải thiện đáng kể thời gian sống sót sau phẫu thuật của bệnh nhân ở giai đoạn IB, giai đoạn II và giai đoạn IIIA, và lợi ích lâm sàng là rất đáng kể.

Sau khi phẫu thuật cắt bỏ, thời gian sống của bệnh nhân được điều trị bằng thuốc nhắm đích rõ ràng là dài hơn nhiều so với bệnh nhân không được điều trị bổ trợ. Do đó, sau phẫu thuật, bệnh nhân giai đoạn IB, giai đoạn II trở lên nên điều trị bổ trợ, nếu có đột biến gen thì nên điều trị bổ trợ đích.

5. TÔI NÊN DÙNG THUỐC NHẮM ĐÍCH TRONG BAO LÂU?

VÍ DỤ NHƯ CÓ BỆNH NHÂN UỐNG BẢY TÁM NĂM, MANG KHỐI U CHUNG SỐNG, BỆNH NHÂN NHƯ VẬY CÓ THỂ NGỪNG UỐNG THUỐC ĐƯỢC KHÔNG?

Thuốc nhắm trúng đích đã phát huy tác dụng thì nên uống liên tục, không nên ngưng vì đây là thuốc ức chế, kìm hãm sự phát triển của tế bào ung thư chứ không tiêu diệt được tế bào ung thư. Vì vậy, hãy tiếp tục sử dụng cho đến khi bạn kháng thuốc, hoặc tác dụng phụ nghiêm trọng, và nếu bạn không thể chịu đựng được, hãy ngừng thuốc.

10 câu hỏi hay gặp nhất đối với bệnh nhân ung thư phổi khi dùng thuốc ĐÍCH

6. LÀM THẾ NÀO ĐỂ ĐÁNH GIÁ LIỆU THUỐC NHẮM ĐÍCH CÓ HIỆU QUẢ HAY KHÔNG?

NẾU TÁC DỤNG PHỤ XẢY RA KHI SỬ DỤNG THUỐC ĐÍCH NGHĨA LÀ THUỐC ĐÍCH CÓ HIỆU QUẢ ĐỐI VỚI BỆNH NHÂN VÀ NGƯỢC LẠI, NHẬN ĐỊNH NÀY CÓ ĐÚNG KHÔNG?

Thứ nhất, để đánh giá liệu thuốc nhắm đích có tốt hay không là tác dụng chữa bệnh của nó, một là các triệu chứng của bệnh nhân có thuyên giảm hay không, hai là liệu các xét nghiệm dấu ấn khối u, như CEA…. có giảm hay không.

Điều quan trọng nhất là chụp CT, là bằng chứng khách quan nhất. Chụp CT ngực cho thấy khối u đã nhỏ lại và điều đó đã được chứng minh là có hiệu quả. Đối với mối quan hệ giữa tác dụng chữa bệnh và tác dụng phụ, chỉ có Erlotinib là tương đối rõ ràng và được hỗ trợ bởi các bằng chứng khách quan, phát ban càng nặng thì tác dụng chữa bệnh càng tốt. Các loại thuốc nhắm đích khác không có quy tắc này, ít nhất là không có bằng chứng chứng minh và nó tuân theo quy tắc này.

7. BỆNH NHÂN ÂM TÍNH VỚI ĐỘT BIẾN GEN CÓ THỂ DÙNG THUỐC NHẮM ĐÍCH KHÔNG?

Bởi vì tiền đề của liệu pháp nhắm đích là phải có mục tiêu, và nếu không có mục tiêu, thì việc sử dụng thuốc nhắm đích sẽ không hiệu quả. Do đó, nó không được khuyến cáo cho những bệnh nhân này.
Đối với những bệnh nhân âm tính với đột biến gen, có một số cách tiếp cận để điều trị. Thứ nhất là hóa trị, thứ hai là liệu pháp miễn dịch, đương nhiên, liệu pháp miễn dịch là lựa chọn hàng đầu của những bệnh nhân này, sau khi liệu pháp miễn dịch kháng thuốc, hoặc liệu pháp miễn dịch không phù hợp với bệnh nhân, thì mới sử dụng hóa trị. Tất nhiên, bệnh nhân cũng có thể sử dụng hóa trị liệu cộng với miễn dịch, hóa trị liệu cộng với thuốc chống tăng sinh mạch, như hóa trị liệu cộng với bevacizumab, đây là một số phương pháp. Nó cũng có thể là miễn dịch kết hợp với hóa trị liệu, miễn dịch kết hợp với chống tăng sinh mạch, v.v. Miễn dịch, hóa trị hoặc liệu pháp kết hợp là cả ba chiến lược.

Vì vậy, đối với bộ phận bệnh nhân ung thư phổi này vẫn có những lựa chọn điều trị, hết cơ hội thì mới nghĩ tới mò, mình tin ông trời vẫn muốn mọi người vượt qua mọi thử thách.

[Có thể bạn chưa biết] Dịch vụ Hóa trị liệu tại Trung tâm Hóa trị Hưng Việt

8. LÀM THẾ NÀO BÁC SĨ PHÁT HIỆN RA TÌNH TRẠNG KHÁNG THUỐC Ở BỆNH NHÂN?

NẾU BỊ KHÁNG THUỐC THÌ NÊN ĐIỀU CHỈNH KẾ HOẠCH ĐIỀU TRỊ TIẾP THEO NHƯ THẾ NÀO?

Nói chung, thời gian kháng thuốc về cơ bản là khoảng 12 tháng với thuốc thế hệ thứ nhất và thế hệ thứ hai. Làm thế nào để xác định kháng thuốc, một là biểu hiện lâm sàng của bệnh nhân, chẳng hạn như ho nhiều hơn, khó thở, ho ra máu, đau xương và đau ngực, tất cả đều cho thấy có thể xuất hiện tình trạng kháng thuốc.

Cách thứ hai để phán đoán là làm xét nghiệm đột biến gen, nếu xuất hiện đột biến gen mới, thì khả năng có nghĩa là bệnh nhân kháng thuốc.

Phương pháp thứ ba là chụp CT, nếu chẩn đoán hình ảnh có tiến triển rõ ràng, tổn thương ban đầu lớn hơn hoặc đã xuất hiện di căn ở phổi hoặc não, hoặc đã xuất hiện di căn ở một số vị trí thông thường như gan, hạch bạch huyết, và tuyến thượng thận, có nghĩa là bệnh nhân trở nên kháng thuốc.

Hiện nay xử lý tình trạng kháng thuốc của bệnh nhân theo cách này: thứ nhất, nó được chia thành tiến triển nhanh, tức là tiến triển ồ ạt, tiến triển chậm hoặc tiến triển một phần và được xử lý theo 3 phương pháp kháng thuốc này.

  • Tiến triển chậm, không thay đổi phác đồ điều trị đích, lúc này bệnh nhân ung thư phổi dùng tiếp 3 đến 5 tháng vẫn có lợi nên có thể kéo dài thêm 3 đến 5 tháng, đây là cách thứ nhất, hoặc kết hợp hóa trị và xạ trị, tuy theo quan điểm của mỗi bác sĩ
  • Thứ hai là tiến triển ồ ạt, di căn nhiều nơi, hiện nay chủ yếu là hóa trị, sau đó mới là dùng miễn dịch, ví dụ kháng thế hệ 1 và 2 chuyển sang thế hệ 3 đối với gen EGFR…
  • Cách thứ ba là tiến triển tại chỗ ví dụ di căn não tiến triển, nhưng bộ phận khác không tiến triển, thì điều trị đích vẫn được sử dụng, xem xét kết hợp phương pháp điều trị tại chỗ, chẳng hạn như phẫu thuật, hoặc xạ trị..

Tất nhiên, sau khi xử lý xong tình trạng kháng thuốc theo 3 điều kiện trên, trong quá trình điều trị cần tiến hành xét nghiệm đột biến gen để tìm ra cơ chế và nguyên nhân gây ra tình trạng kháng thuốc, từ đó quyết định cách xử lý ở bước tiếp theo.

Ví dụ như thuốc nhắm đích thế hệ thứ nhất và thế hệ thứ hai, 60% cơ chế kháng thuốc của bệnh nhân là đột biến T790M, sau khi đột biến này xảy ra thì thuốc thế hệ thứ nhất và thứ hai sẽ không còn tác dụng, lúc này bệnh nhân có thể sử dụng thuốc nhắm đích thế hệ thứ ba. Do đó, xét nghiệm đột biến gen di truyền phải được thực hiện trong tương lai để tìm kháng thuốc.

9. BỆNH NHÂN UNG THƯ PHỔI CÓ THỂ LỰA CHỌN LIỆU PHÁP PHỐI HỢP NÀO?

CÁC TÁC DỤNG PHỤ NÊN ĐƯỢC QUẢN LÝ NHƯ THẾ NÀO?

Liệu pháp kết hợp là một con đường tiến bộ, giống như hóa trị liệu kết hợp thuốc đích và liệu pháp chống tăng sinh mạch kết hợp thuốc đích, nhưng không phải ai cũng phù hợp với hình thức điều trị này, phải là tình trạng thể chất của bệnh nhân tốt hơn. Dựa trên thang điểm PS (Điểm trạng thái thể chất).

Thể lực tổng hợp điểm: 0 là bình thường, giống như bình thường sinh hoạt, 1 là thể chất tốt. Đối với những bệnh nhân có số điểm từ 0-1, thường bác sĩ khuyên bệnh nhân ấy nên cân nhắc liệu pháp phối hợp. (Lưu ý: Điểm PS càng lớn thể chất càng kém)

Liệu pháp phối hợp quả thực đã kéo dài thời gian sống của bệnh nhân ung thư phổi và làm chậm quá trình kháng thuốc, có nhiều lợi ích nhưng vấn đề chính là tác dụng phụ. Hóa trị liệu kết hợp thuốc đích, do hóa trị liệu kết hợp, tác dụng phụ của hóa trị liệu sẽ xuất hiện, chẳng hạn như ức chế tủy xương, rụng tóc, buồn nôn, nôn mửa, tiêu chảy và các tác dụng phụ khác. Hoặc là sự kết hợp với thuốc chống tăng sinh mạch cũng sẽ có tác dụng phụ rõ ràng, chẳng hạn như huyết áp cao, protein niệu, v.v., đây là những tác dụng phụ tương đối phổ biến.

Do đó, bệnh nhân ung thư phổi phải cân nhắc tìm hiểu kỹ, hay bác sĩ chuyên khoa tư vấn đánh giá thể trạng xem có phù hợp với phác đồ kết hợp không.

[Có thể bạn chưa biết] Kiến thức ung thư phổi

10. NGƯỜI BỆNH CẦN LƯU Ý ĐIỀU GÌ TRONG SINH HOẠT KHI DÙNG THUỐC ĐÍCH?

CÓ BẤT KỲ CHỐNG CHỈ ĐỊNH CHẾ ĐỘ ĂN UỐNG HOẶC THUỐC?

  • Trước hết, yêu cầu của mỗi loại thuốc là khác nhau, đối với gefitinib nên uống khi bụng đói hoặc cùng với thức ăn, có thể uống trong bữa ăn hoặc uống khi bụng đói. Đúng vậy, liều lượng của người già không cần giảm bớt, nhưng phù hợp với bệnh nhân suy gan thận nặng, phải dùng dưới sự hướng dẫn của bác sĩ, có một số trường hợp nặng thì không dùng được.
  • Thứ hai là thuốc erlotinib, bắt buộc phải uống trước hoặc sau bữa ăn 2 tiếng, thận trọng khi dùng thuốc cho người suy thận nặng hoặc suy gan, Hãy chắc chắn để theo dõi chức năng thận và theo dõi nồng độ trong máu.

Đối với afatinib thế hệ thứ hai, ưu điểm lớn nhất của nó là độc tính trên gan rất nhỏ, đây là loại thuốc gây độc cho gan ít nhất trong số tất cả các loại thuốc đích. Vì vậy, đối với bệnh nhân chức năng gan kém sử dụng afatinib sẽ an toàn hơn, nên dùng trước bữa ăn hoặc sau bữa ăn hai, ba giờ, không nên dùng chung với thức ăn khi đang ăn.

Một loại khác là osimertinib thế hệ thứ ba, cũng là giống nhau, bệnh nhân suy gan vừa đến nặng, suy thận nặng phải cẩn thận giảm liều lượng, có thể uống trước hoặc sau bữa ăn hai giờ.

Đối với những bệnh nhân mắc bệnh phổi tiềm ẩn, đặc biệt là xơ phổi và viêm phổi kẽ, tất cả các loại thuốc nhắm đích nên được sử dụng một cách thận trọng.

Để biết chính xác tình trạng và phác đồ điều trị hợp lý, người bệnh cần tới các bệnh viện để được bác sĩ thăm khám trực tiếp, chẩn đoán và tư vấn phác đồ điều trị. Hotline: 094 230 0707

Có thể bạn quan tâm:

post
Chia sẻ

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

HỆ THỐNG Y TẾ HƯNG VIỆT

Bệnh viện Ung bướu Hưng Việt

Phòng khám Đa khoa Hưng Việt

CÔNG TY CỔ PHẦN KINH DOANH HƯNG VIỆT
ĐKKD số: 0105532379 – Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội cấp lần đầu ngày 29/09/2011
Giấy phép hoạt động khám bệnh, chữa bệnh số 29/BYT – GPHĐ do Bộ y tế cấp ngày 29/01/2013

DMCA.com Protection Status

BỆNH VIỆN UNG BƯỚU HƯNG VIỆT

Số 34 Đường Đại Cồ Việt, Hai Bà Trưng, Hà Nội

PHÒNG KHÁM ĐA KHOA HƯNG VIỆT

Số 40 Đường Đại Cồ Việt, Hai Bà Trưng, Hà Nội

HOTLINE 

024 6250 0707 – 0942 300 707

info@benhvienhungviet.vn

Facebook Fanpage Youtube Chanel
Copyright 2021 © Bệnh Viện Ung Bướu Hưng Việt