Chiếu xạ:
Chiếu xạ nhằm làm giảm triệu chứng khi toàn bộ bề mặt màng phổi bị tổn thương rất khó thực hiện về mặt kỹ thuật và thường gây viêm phổi, viêm tuỷ xương, viêm gan và viêm cơ tim do chiếu xạ. U trung mô nhạy cảm với tia xạ hơn ung thư phổi không phải tế bào nhỏ, nhưng kém nhạy cảm với tia hơn so với ung thư biểu mô tế bào nhỏ. Chiếu xạ là phương pháp điều trị giảm triệu chứng tại chỗ có hiệu quả cho 50% bệnh nhân.
Một số nghiên cứu đơn lẻ đã thông báo về khả năng kéo dài thời gian sống thêm sau chiếu xạ, ngoài liều cao và cả khi đưa đồng vị phóng xạ vào trong màng phổi. Phần lớn các nghiên cứu không thấy tỷ lệ sống nói chung tăng rõ rệt. Tuy nhiên, chiếu xạ có thể phòng ngừa tái phát ở thành ngực sau nội soi lồng ngực hoặc mở lồng ngực và giúp cho việc kiểm soát tại chỗ được hiệu quả hơn sau cắt màng phổi hoặc cắt phổi ngoài màng phổi.
Hóa chất:
Mặc dù đã có nhiều thử nghiệm đơn hóa chất và đa hóa chất cho bệnh nhân ung thư trung mô tiến hành trong hai thập kỷ vừa qua, nhưng hiện nay chưa có chế độ điều trị nào thật sự ưu việt để sử dụng đầu tay cho căn bệnh này. Hóa chất đơn độc cho tỷ lệ đáp ứng thấp, dao động từ 0 đến 20%. Doxorubicin là hóa chất cho tỷ lệ đáp ứng cao nhất, những thuốc khác như methotrexat, cisplatin và ifosfamid có ít hiệu quả. Một nghiên cứu dùng vinorelbin đơn độc (30mg/m2/tuần) thấy tỷ lệ đáp ứng 24% trong sô 29 bệnh nhân.