Hiện đã có các bằng chứng thuyết phục cho thấy các yếu tố như độ tuổi, hút thuốc lá, cắt bao quy đầu lúc mới sinh, hẹp bao quy đầu và nhiễm virút papilloma người (HPV), có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển ung thư biểu mô tế bào vẩy dương vật. Các yếu tố nguy cơ có thể khác bao gồm tiền sử có sử dụng liệu pháp quang hóa tia cực tím (PUVA), có nhiều bạn tình, tiền sử rách hoặc xước dương vật, các yếu tố di truyền và chủng tộc.
1. Các yếu tố ảnh hưởng lớn
Độ tuổi
Tuổi cao là một yếu tố nguy cơ của ung thư dương vật. Ung thư dương vật hiếm gặp trước tuổi dậy thì, tần suất mắc bệnh bắt đầu tăng ở tuổi trưởng thành và sau đó tiếp tục tăng. Trong một nghiên cứu trên 4000 trường hợp, độ tuổi trung bình được chẩn đoán bệnh là 60 tuổi.
Hút thuốc lá
Những người hút thuốc lá có nguy cơ ung thư dương vật cao hơn. Trong một nghiên cứu có đối chứng tiến hành trong cộng đồng, người hút thuốc có nguy cơ mắc bệnh cao gấp ba lần so với người không hút thuốc. Lượng thuốc lá sử dụng liên quan tới ung thư dương vật là một yếu tố độc lập, không phụ thuộc vào các yếu tố khác như tiền sử tình dục.
Người ta cho rằng khói thuốc lá có thể làm tăng nguy cơ phát triển ung thư dương vật qua việc ức chế chức năng các tế bào Langerhans trình diện kháng nguyên, hậu quả là gây ảnh hưởng xấu lên hệ thống cảnh báo miễn dịch. Một số khác lại cho rằng tình trạng nhiễm HPV, kích thích dương vật mạn tính hoặc hẹp bao quy đầu có thể có tác dụng hiệp đồng với hút thuốc lá để thúc đẩy quá trình chuyển dạng ác tính. Mặc dù có bằng chứng cho thấy các chất gây ung thư trong thuốc lá tập trung ở bựa sinh dục, việc điều trị hẹp bao quy đầu đơn độc không loại bỏ được nguy cơ do hút thuốc gây ra.
Không cắt bao quy đầu
Tác dụng có lợi của việc cắt bao quy đầu lúc mới sinh đối với sự phát triển ung thư dương vật đã được đánh giá cao từ lâu. Dưới đây là các số liệu chứng minh: Ung thư dương vật hầu như không tồn tại ở cộng đồng người Do thái và người theo đạo Hồi, là những người có tục lệ cắt bao quy đầu cho nam giới khi mới sinh.
Trong một nghiên cứu so sánh trực tiếp tiến hành ở Uganda, các bộ lạc có tục lệ cắt bao quy đầu có tỷ lệ ung thư dương vật là 0,5/100.000 nam giới, trong khi đó tỷ lệ này ở các bộ lạc không có tục lệ cắt bao quy đầu cao hơn gần sáu lần, tới 2,9/100.000 nam giới.
Với những người không cắt bao quy đầu, tỷ lệ phát triển ung thư dương vật trong cả cuộc đời có thể lên tới 1/600, trong khi đó tỷ lệ trong cộng đồng chung là 0,2/100.000 nam giới. Trong một báo cáo tổng quan trên 50.000 trường hợp bị ung thư biểu mô tế bào vẩy dương vật, chỉ có 11 người được cắt bao quy đầu lúc mới sinh, mặc dù một báo cáo tổng quan khác đưa ra con số đối lập, trong đó 20% bệnh nhân ung thư dương vật đã được cắt bao quy đầu lúc mới sinh.
Phần lớn tác dụng có lợi của cắt bao quy đầu mất đi nếu không được tiến hành khi còn là trẻ nhỏ. Trong một nghiên cứu có đối chứng bao gồm 110 bệnh nhân ung thư dương vật và 355 người đối chứng, so với những người đã được cắt bao quy đầu lúc mới sinh, nguy cơ ung thư dương vật tương đối ở đối tượng không cắt bao quy đầu và đối tượng cắt bao quy đầu sau giai đoạn sơ sinh tương ứng là 3,0 và 3,2. Các nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết là tác dụng bảo vệ của việc cắt bao quy đầu xuất phát từ việc không tồn đọng bựa sinh dục và không bị hẹp bao quy đầu về sau khi dương vật bị kích thích mạn tính, đặc biệt là khi vệ sinh cá nhân không tốt. Hiện vẫn chưa xác định được mối liên hệ giữa việc cắt bao quy đầu và nguy cơ lây nhiễm hoặc lan truyền HPV.
Bựa sinh dục
Bựa sinh dục bắt đầu hình thành vào những ngày đầu tiên của cuộc sống do bong tế bào biểu mô trong bao quy đầu; dịch bài tiết từ các tuyến bao quy đầu cũng đóng góp một phần. Bựa sinh dục có khả năng gây ung thư ở các mô hình nghiên cứu trên súc vật, mặc dù thành phần đặc hiệu gây chuyển dạng ác tính ở nam giới chưa được xác định. Vi khuẩn Mycobaterium có trong bao quy đầu ở khoảng một nửa đối tượng không cắt bao quy đầu, có thể chuyển đổi sterol trong bựa sinh dục thành hợp chất gây ung thư. Ở nam giới không cắt bao quy đầu, sự tồn đọng bựa sinh dục, đặc biệt là khi bị hẹp bao quy đầu, có thể thúc đẩy quá trình chuyển dạng ác tính do sự tiếp xúc trực tiếp với biểu mô bị kích thích mạn tính.
Hẹp bao quy đầu
Hẹp bao quy đầu khiến cho bao quy đầu không thể co lại được, là một trong những yếu tố nguy cơ quan trọng nhất. Theo một báo cáo tổng quan các nghiên cứu có đối chứng đã công bố, hẹp bao quy đầu làm tăng nguy cơ phát triển ung thư dương vật nói chung lên hơn 10 lần. Hẹp bao quy đầu là một bất thường hay đi kèm với ung thư dương vật nhất và nó liên quan tới tình trạng không biệt hóa biểu mô. Trong một thông báo, xét nghiệm mô học bao quy đầu ở nam giới cho thấy tỷ lệ có tình trạng không biệt hóa biểu mô ở nam giới có hẹp bao quy đầu là 35%, còn tỷ lệ đó ở nam giới không bị hẹp bao quy đầu là 0%. Tình trạng tồn đọng bựa sinh dục mạn tính, xảy ra khi vệ sinh cá nhân không tốt, có thể thúc đẩy quá trình hình thành chứng hẹp bao quy đầu.
Nhiễm virút papilloma người
Giống như các loại ung thư biểu mô tế bào vẩy vùng hậu môn-sinh dục khác, tình trạng nhiễm virút papilloma người (HPV) liên quan chặt chẽ với ung thư dương vật và có thể là nguyên nhân gây ra loại ung thư này.
Tần suất nhiễm HPV ở bệnh nhân ung thư dương vật dao động từ 27% tới 71%; hầu hết các trường hợp có liên quan tới dưới tuýp 16 hoặc 18. Trái lại, tần suất nhiễm HPV ước tính trong bao quy đầu của đối tượng khỏe mạnh không bị ung thư dương vật và ở trẻ mới sinh tương ứng là o – 6% và 4%. Tình trạng nhiễm HPV dường như không ảnh hưởng tới tiên lượng của bệnh nhân ung thư dương vật.
2. Các yếu tố khác
Các yếu tố khác cũng được cho là có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển ung thư dương vật.
Liệu pháp PUVA
Tiền sử sử dụng liệu pháp quang hóa tia cực tím và psoralen (PUVA) có liên quan tới sự phát triển ung thư dương vật về sau.
Quan hệ tình dục bừa bãi
Quan hệ tình dục bừa bãi có thể thúc đẩy quá trình phát triển ung thư dương vật. Trong một nghiên cứu, nam giới có hơn 30 bạn tình trong cả cuộc đời có nguy cơ phát triển ung thư dương vật cao hơn những người có một đến bốn hoặc năm đến 29 bạn tình (tương ứng gấp 3,4 và 2,6 lần). Tuy nhiên, tần suất nhiễm HPV cao hơn ở những người có quan hệ tình dục bừa bãi có thể giải thích cho mối liên hệ này.
Tổn thương dương vật
Trong một thông báo, nguy cơ phát triển ung thư dương vật ở những người bị các vết rách nhỏ hoặc xây xước dương vật tăng 3,9 lần so với người không có các tổn thương này.
Chủng tộc và tiền sử gia đình
Mối liên hệ giữa chủng tộc và ung thư dương vật hiện còn đang bị nghi ngờ. Theo một nghiên cứu, người Mỹ gốc Phi có nguy cơ phát triển ung thư dương vật cao gấp hai lần người da trắng, nhưng các nghiên cứu khác lại không thấy sự khác biệt này. Một hội chứng gia đình hiếm gặp cũng đã được mô tả.
Nhiễm HIV
Mối liên quan giữa tình trạng nhiễm HIV và ung thư dương vật chưa rõ ràng. Chỉ có một số ít trường hợp bị ung thư dương vật trong số những người nhiễm HIV được công bố, thường là ở các trường hợp có nhiễm HPV. Tần suất mắc ung thư dương vật thấp khi bị nhiễm HIV khiến cho người ta ngạc nhiên vì các loại ung thư hậu môn-sinh dục liên quan tới HPV khác tăng lên khi bị nhiễm HIV.
Các tổn thương dương vật tiền ung thư
Một số tổn thương dương vật hiện nay được coi là tiền ung thư do có khả năng thúc đẩy hoặc phát triển trực tiếp thành ung thư biểu mô tế bào vẩy xâm lấn. Các tổn thương này bao gồm viêm quy đầu khô tắc (BXO), bạch sản, sừng hóa da quy đầu, sùi mào gà, condilom Buschke-Lowenstein khổng lồ, viêm quy đầu giả epithelioma dày sừng (PKMB) và ung thư biểu mô nông tại chỗ (CIS) gồm các thể bệnh Bowen (BD), hồng sản Querat (EQ) và sẩn dạng Bowen (PB).
Không xác định được phạm vi của tổn thương có trước khi hình thành ung thư dương vật xâm lấn; các bằng chứng hiện có gợi ý đa số các trường hợp ung thư biểu mô tế bào vẩy dương vật phát triển tự nhiên. Ví dụ, trong một nghiên cứu, chỉ có 39 người (8%) trong số 511 bệnh nhân ung thư dương vật có tổn thương dương vật trước đó hoặc có tổn thương đồng thời. Tuy nhiên, trong nghiên cứu thứ hai, 19 (42%) trong số 45 bệnh nhân công bố có tổn thương từ trước. Do đó, vai trò chính xác của tổn thương dương vật có từ trước đối với quá trình hình thành ung thư còn đang được tiếp tục nghiên cứu.
Viêm bao quy đầu khô tắc
BXO là một căn bệnh ở vùng sinh dục tương tự lichen thể xơ hóa và teo đét, được đặc trưng bởi các mảng trắng ở quy đầu hoặc ở bao quy đầu. Các mảng trắng này cuối cùng to lên và kết hợp thành khối u xơ cứng gây dính, hẹp bao quy đầu và chít hẹp miệng sáo. Mặc dù thường được coi là lành tính nhưng BXO có liên quan tới ung thư biểu mô tế bào vẩy ở khoảng hơn chục trường hợp, không có ai trong số này được cắt bao quy đầu lúc mới sinh. Trong một nghiên cứu có 86 bệnh nhân bị lichen xơ cứng vùng sinh dục, các biểu hiện mô học tiền ung thư hoặc ung thư phát triển ở 5 bệnh nhân (6%), 4 trong 5 bệnh nhân này có nhiễm HPV.
Khoảng thời gian trung bình từ lúc lichen xơ cứng khởi phát cho tới khi phát triển ung thư dương vật là 17 năm (dao động từ 10 đến 23 năm).
Bạch sản
Tình trạng kích thích hoặc viêm mạn tính được coi là đóng vai trò quan trọng trong sinh bệnh học của bạch sản, đó là một tình trạng bệnh hiếm gặp thường có một hoặc nhiều mảng trắng dạng vẩy ở miệng sáo. Mặc dù mối liên quan chính xác với ung thư dương vật chưa được xác định rõ nhưng bạch sản thường được phát hiện ở gần hoặc sát vùng có ung thư biểu mô tế bào vẩy. Bản chất tiền ung thư của bạch sản được gợi ý do có biểu hiện loạn sản ở 10 – 20% các trường hợp nếu để bệnh tiến triển tới mức độ loét, xước hoặc nứt.
Sừng hóa da quy đầu
Sừng hóa da quy đầu là một tổn thương dày sừng lồi được tạo thành do sự quá phát và sừng hóa biểu mô. Sừng hóa da thường được tạo thành trên bề mặt của tổn thương có từ trước như mụn ruồi, hạt cơm hoặc vết trầy xước và chúng được coi là một đáp ứng với tình trạng viêm bao quy đầu mạn tính. Sự thoái hóa ác tính đã được ghi nhận ở một số trường hợp bệnh tái phát và hiếm khi sừng hóa phát triển hoặc tạo thành từ ung thư xâm lấn.
Sùi mào gà
Sùi mào gà hay còn gọi là mụn cơm sinh dục là các u nhú, mềm đi kèm tình trạng nhiễm HPV. Mặc dù u sùi thường có diễn biến lành tính nhưng cũng có thể chuyển dạng ác tính, đặc biệt khi đi kèm với một số dưới tuýp HPV nhất định (16, 18, 31, 33, 35 và 39). Tần suất mắc ung thư dương vật tăng ở những người có sùi mào gà được minh họa trong một nghiên cứu có đối chứng tiến hành trong cộng đồng trên 110 bệnh nhân ung thư dương vật và 355 người làm chứng, trong đó nguy cơ ung thư dương vật ở người có tiền sử u sùi mào gà cao hơn 5,9 lần so với người không có u sùi.
Condyloma Buschke-Lowenstein khổng lồ (ung thư biếu mô dạng hạt cơm)
Đây thường là u lồi trông giống súp lơ ở quy đầu và bao quy đầu của dương vật và là một dạng ung thư biểu mô tế bào vẩy hậu môn-sinh dục biệt hóa cao, chiếm khoảng 5 – 24% các trường hợp ung thư dương vật tuỳ thuộc vào nhóm đối tượng được nghiên cứu. HPV được cho là có liên quan tới sinh bệnh học của ung thư biểu mô dạng hạt cơm; HPV dưới tuýp 6 và 11 thường được phân lập và dưới tuýp 16 và 18 có liên quan tới sự phát triển xâm lấn.
Ung thư biểu mô dạng hạt cơm có tiên lượng tốt hơn các ung thư biểu mô tế bào vẩy dương vật khác. Trong một nghiên cứu so sánh 60 trường hợp ung thư biểu mô tế bào vẩy dương vật và 11 trường hợp ung thư biểu mô dạng hạt cơm, ung thư biểu mô dạng hạt cơm có khả năng di căn hạch thấp hơn (18% so với 57%) và tỷ lệ sống sót sau năm năm cao hơn (100% so với 60%). Ung thư biểu mô dạng hạt cơm còn có tần suất kết hợp với HPV ADN cao hơn (46% so với 27%).
Viêm quy đầu giả epithelioma dày sừng (PKMB)
PKMB là một tổn thương ít gặp, biểu hiện lâm sàng là một mảng đơn độc màu trắng dày sừng phân thành lớp ở quy đầu; nó thường xuất hiện ở người cao tuổi và được cắt bao quy đầu muộn. Nguyên nhân chính xác gây ra căn bệnh này vẫn chưa được xác định rõ, sự chuyển dạng ác tính PKMB thành ung thư biểu mô tế bào vẩy đã được công bố; dấu hiệu chuyển dạng là sự phát triển một tổn thương lồi dạng nhân trong mảng trắng tồn tại từ trước.
Bệnh Bowen
Bệnh Bowen (BD) là một ung thư biểu mô nông tại chỗ (CIS) trong biểu mô sinh nang, ví dụ trên thân dương vật. Nó thường là đám đỏ nhạt đơn độc với các vùng có vỏ cứng và rỉ nước. Trong một nghiên cứu, HPV-16 có ở 4 trong 5 tiêu bản sinh thiết BD sinh dục. Nếu không điều trị, ung thư biểu mô tế bào vẩy sẽ phát triển ở khoảng 5% các trường hợp.
Hồng sản Querat
Hồng sản Querat (EQ) là một loại ung thư biểu mô nông tại chỗ phát triển trong lớp biểu mô niêm mạc-da của dương vật tức là quy đầu và bao quy đầu. Nó thường có màu đỏ nhung, ranh giới rõ. Các tổn thương này thường đơn độc và đôi khi bị xước hoặc bị loét nhưng ít khi bị đau. EQ thường gặp ở người cao tuổi và không cắt bao quy đầu. Nó có xu hướng thoái hóa thành ung thư biểu mô tế bào vẩy xâm lấn cao hơn so với bệnh Bowen; tần suất chuyển dạng ác tính dao động trong khoảng 10 – 33%. Sự phát triển loét và/hoặc u nhú có liên quan tới sự tiến triển của bệnh. Người ta đã mô tả mối liên hệ của bệnh với HPV 8 và 16.
Sẩn dạng Bowen
Sẩn dạng Bowen (BP) là dạng ung thư biểu mô nông tại chỗ thứ ba, được đặc trưng bởi nhiều mụn sẩn hơi lồi có màu từ đỏ tới tím. Các mụn này thường tạo thành trên thân dương vật mặc dù quy đầu và bao quy đầu cũng có thể bị tổn thương. Người ta cho là HPV có liên quan đến sinh bệnh học của sẩn dạng Bowen. Diễn biến lâm sàng của sẩn dạng Bowen thường là lành tính, nhưng cũng đã có một số ít trường hợp tiến triển thành ung thư biểu mô tế bào vẩy xâm lấn. Tuổi cao và tình trạng ức chế miễn dịch có thể làm tăng nguy cơ tiến triển.